Hồ sơ điều tra

Xét xử vụ án Vạn Thịnh Phát: “Bị cáo Trương Mỹ Lan dùng tiền của SCB để mua bất động sản”

Đại diện VKS cho rằng, Trương Mỹ Lan đã dùng SCB như một công cụ tài chính, huy động tiền trong dân rồi chiếm đoạt để mua nhiều bất động sản.

Sáng 3/4, TAND Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục phiên tòa xét xử Trương Mỹ Lan và 85 đồng phạm, liên quan đến các sai phạm xảy ra tại tập đoàn Vạn Thịnh Phát, Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) và các đơn vị liên quan. Đại diện VKS tiếp tục phần tranh luận, về các quan điểm bào chữa bổ sung cho các bị cáo của luật sư.

Theo đại diện VKS, thiệt hại của vụ án được xác định là 677.000 tỷ đồng. Đây là số liệu làm căn cứ quy buộc trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Trương Mỹ Lan. Thiệt hại được xác định trên cơ sở dư nợ của các khoản vay trừ đi tổng giá trị tài sản bảo đảm được phân bổ cho các khoản vay.

Về căn cứ để xác định thiệt hại, VKS cho rằng không chỉ căn cứ vào chứng thư thẩm định giá của Công ty thẩm định giá Hoàng Quân, mà còn tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp khác.

Theo Bộ luật Hình sự, việc xác định thiệt hại không nhất thiết phải trưng cầu hội đồng định giá trong tố tụng hình sự, do đó không cần trưng cầu giám định thiệt hại như luật sư đề nghị.

Đại diện VKS cho rằng, thực tế bị cáo Lan không có nhiều tài sản, không có tiềm lực tài chính dồi dào. Nếu có, tại sao bị cáo không tất toán các khoản nợ cũ tại SCB (cũ) và Ngân hàng Tín Nghĩa, mà sử dụng SCB huy động tiền gửi của dân?.

VKS cho rằng, tiền tại SCB là tiền huy động của dân và bị cáo Lan đã chiếm đoạt.

Dẫn chứng, VKS cho biết, trước năm 2012, bị cáo Trương Mỹ Lan chỉ có 60 bất động sản; 1.109 bất động sản còn lại bị cáo Lan mua sau năm 2012. Đây cũng là thời gian mà Trương Mỹ Lan “nhúng tay” vào tái cơ cấu SCB, cũng là thời gian bị cáo bị xác định có hàng loạt sai phạm để chiếm đoạt hàng trăm ngàn tỷ đồng của SCB như cáo trạng nêu.

Về quan điểm của các luật sư cho rằng, hành vi phạm tội của bị cáo không thỏa mãn yếu tố người có chức vụ quyền hạn nên không đủ căn cứ để truy tố bị cáo Trương Mỹ Lan tội Tham ô tài sản, đại diện VKS lập luận, đây là vụ án có tổ chức, các bị cáo thực hiện chuỗi sai phạm, người sau tiếp cận sai phạm người trước để nối tiếp. 

Hoạt động của SCB là hoạt động đặc thù, trong đó HĐQT và Tổng Giám đốc phải được Ngân hàng Nhà nước đồng ý phê duyệt.

Tuy nhiên, theo VKS, kết quả thẩm tra tại phiên tòa và hồ sơ vụ án thể hiện bị cáo Lan sở hữu 91,5% cổ phần SCB. Việc sở hữu, quản lý như vậy đã vi phạm quy định của Luật Tổ chức tín dụng, quy định cá nhân không sở hữu quá 5% cổ phần.

Bị cáo Lan nắm quyền sở hữu cổ phần gần như tuyệt đối, tham gia đại hội đồng cổ đông, sử dụng quyền lực để bầu ra HĐQT, ban kiểm soát, đưa người thân vào quản lý, biến SCB thành công cụ huy động tiền.

Đại diện VKS khẳng định, bị cáo Lan nắm quyền cao nhất SCB, điều hành các bị cáo có chức vụ khác tại SCB.

Chức vụ các bị cáo tại SCB là do bị cáo Lan bổ nhiệm. Không có lý do gì nói bị cáo không phải là chủ thể.

Do đó, căn cứ theo Điều 17, Bộ luật Hình sự quy định về đồng phạm, VKS xác định bị cáo Lan là người tổ chức, chủ mưu, cầm đầu, có hành vi chi phối, chỉ đạo các bị cáo để giúp mình chiếm đoạt tài sản của SCB. Vì vậy, có đủ căn cứ truy tố xét xử bị cáo Lan về tội Tham ô tài sản.