Chính sách

Từ 1/1/2022, thay đổi cách tính thuế cho thuê nhà

Tại Thông tư 100/2021/TT-BTC, Bộ Tài chính đã có thay đổi cách xác định doanh thu tính thuế đối với người cho thuê tài sản, thuê nhà.

Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư 100/2021/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 40/2021/TT-BTC hướng dẫn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh.

Thông tư này có hiệu lực từ ngày 1/1/2022.

Cá nhân có doanh thu cho thuê nhà dưới 100 triệu đồng/năm không phải nộp thuế

Thông tư 100/2021/TT-BTC đã sửa đổi cách xác định doanh thu cho thuê tài sản để tính thuế.

Hiện nay, theo điểm c khoản 1 Điều 9 Thông tư 40/2021/TT-BTC hướng dẫn: Cá nhân cho thuê tài sản không phát sinh doanh thu đủ 12 tháng trong năm dương lịch (bao gồm cả trường hợp có nhiều hợp đồng cho thuê) thì mức doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống để xác định cá nhân cho thuê tài sản không phải nộp thuế GTGT, không phải nộp thuế TNCN là doanh thu tính thuế TNCN của một năm dương lịch (12 tháng). Doanh thu tính thuế thực tế để xác định số thuế phải nộp trong năm là doanh thu tương ứng với số tháng thực tế phát sinh cho thuê tài sản.

Thông tư 100/2021/TT-BTC sửa đổi điểm c khoản 1 Điều 9 Thông tư 40/2021 như sau: Cá nhân chỉ có hoạt động cho thuê tài sản và thời gian cho thuê không trọn năm, nếu phát sinh doanh thu cho thuê từ 100 triệu đồng/năm trở xuống thì thuộc diện không phải nộp thuế GTGT, không phải nộp thuế TNCN. Trường hợp bên thuê trả tiền thuê tài sản trước cho nhiều năm thì mức doanh thu để xác định cá nhân phải nộp thuế hay không phải nộp thuế là doanh thu trả tiền một lần được phân bổ theo năm dương lịch.

Hoạt động cho thuê tài sản theo Thông tư 40/2021/TT-BTC bao gồm: Cho thuê nhà, mặt bằng, cửa hàng, nhà xưởng, kho bãi không bao gồm dịch vụ lưu trú; Cho thuê phương tiện vận tải, máy móc thiết bị không kèm theo người điều khiển; Cho thuê tài sản khác không kèm theo dịch vụ.

Dịch vụ lưu trú không tính vào hoạt động cho thuê tài sản nêu trên gồm: cung cấp cơ sở lưu trú ngắn hạn cho khách du lịch, khách vãng lai khác; cung cấp cơ sở lưu trú dài hạn không phải là căn hộ cho sinh viên, công nhân và những đối tượng tương tự; cung cấp cơ sở lưu trú cùng dịch vụ ăn uống hoặc các phương tiện giải trí.

Như vậy, người cho thuê tài sản, thuê nhà trong năm có doanh thu dưới 100 triệu đồng không phải đóng thuế.

Không bắt buộc sàn thương mại điện tử khai thuế thay người bán

Theo đó, sửa đổi quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 8 Thông tư 40/2021/TT-BTC như sau: Tổ chức bao gồm cả chủ sở hữu Sàn giao dịch thương mại điện tử thực hiện việc khai thuế thay, nộp thuế thay cho cá nhân trên cơ sở ủy quyền theo quy định của pháp luật dân sự

Hiện nay, tại điểm đ khoản 1 Điều 8 Thông tư 40/2021/TT-BTC quy định: Tổ chức là chủ sở hữu sàn giao dịch thương mại điện tử thực hiện việc khai thuế thay, nộp thuế thay cho cá nhân theo lộ trình của cơ quan thuế. Trong thời gian chưa thực hiện được việc khai thuế thay, nộp thuế thay cho cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu sàn giao dịch thương mại điện tử phải có trách nhiệm cung cấp các thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh của cá nhân thông qua sàn theo yêu cầu của cơ quan thuế theo quy định của pháp luật như: họ tên; số định danh cá nhân hoặc chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân hoặc hộ chiếu; mã số thuế; địa chỉ; email; số điện thoại liên lạc; hàng hóa, dịch vụ cung cấp; doanh thu kinh doanh; tài khoản ngân hàng của người bán; thông tin khác liên quan

Như vậy, sàn thương mại điện tử sẽ không phải kê khai, nộp thuế thay nếu người bán không ủy quyền.

Đồng thời bỏ cụm từ "tổ chức" tại điểm e khoản 1 Điều 8 Thông tư 40/2021/TT-BTC để phù hợp với nội dung sửa đổi nêu trên: "Cá nhân khai thuế thay, nộp thuế thay cho cá nhân là người nộp thuế trên cơ sở ủy quyền theo quy định của pháp luật dân sự”.

Tuệ Minh