Đối thoại

Mức độ xử phạt vi phạm sở hữu trí tuệ chưa đủ sức răn đe

Việc sửa đổi, bổ sung pháp luật về sở hữu trí tuệ không chỉ có ý nghĩa đối với hội nhập quốc tế mà còn đối với công cuộc chuyển đổi số của đất nước. 

Ngày 24/03, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức Hội thảo công bố Báo cáo “Cải cách kinh tế nhằm bảo hộ sở hữu trí tuệ (SHTT) hiệu quả trong bối cảnh hội nhập kinh tế và chuyển đổi số ở Việt Nam”. Hội thảo được tổ chức trong khuôn khổ Chương trình Australia hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam.

Toàn cảnh Hội thảo

Yêu cầu trước bối cảnh hội nhập và kinh tế số

Trong những năm qua, các mô hình kinh tế dựa trên lao động giá rẻ và tài nguyên thiên nhiên đang dần mất lợi thế cạnh tranh, nguy cơ mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình và nguy cơ già hóa dân số đã đặt ra cho Việt Nam rất nhiều những thách thức và đòi hỏi phải đẩy nhanh việc tìm kiếm mô hình tăng trưởng mới cho nền kinh tế. 

Một trong những định hướng quan trọng là phát huy đổi mới sáng tạo, tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ để tạo động lực mới cho tăng trưởng kinh tế và tăng năng suất lao động. 

Song, định hướng này đòi hỏi phải có những nỗ lực nhằm tăng cường ý thức và hiệu lực bảo vệ sở hữu trí tuệ của cả các cơ quan Chính phủ, doanh nghiệp và người dân. 

Phát biểu tại Hội thảo, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM cho biết, Cách mạng Công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số đang diễn ra rộng khăn với tốc độ “chóng mặt", dẫn đến sự thay đổi về cả phương thức làm việc, hợp tác của các cơ quan, doanh nghiệp, nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực, theo nhiều mức độ khác nhau.

Trong đó, ở góc độ quản lý Nhà nước, vấn đề tăng cường ứng dụng CNTT và chuyển đổi số trong lĩnh vực bảo hộ quyền SHTT, chúng ta có thể nhận thấy rõ lợi ích ích sự tăng cường, phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan. Đồng thời, tạo thuận lợi cho quá trình thực thi các quyền đối với tài sản trí tuệ, điều này cũng giúp cho quá trình chuyển đổi số được diễn ra đồng bộ và nhanh nhất.

TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM

Mặt khác, ở góc độ hội nhập, nhiều nội dung có liên quan đã và đang trở thành các nội dung quan trọng trong hợp tác quốc tế, kế cả trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP). 

Thực hiện hiệu quả các nội dung này phụ thuộc đáng kể vào cách tiếp cận của Việt Nam trong việc nội luật hóa các cam kết và trong nâng cao năng lực cho các cơ quan, doanh nghiệp và người dân. Trước yêu cầu ấy, Việt Nam đã và đang có nhiều nỗ lực hoàn thiện khung chính sách, pháp luật về sở hữu trí tuệ, bên cạnh các nội dung khác.

Việc sửa đổi, bổ sung pháp luật về sở hữu trí tuệ không chỉ có ý nghĩa đối với hội nhập quốc tế mà còn đối với công cuộc chuyển đổi số của đất nước. 

Từ đó, nền kinh tế số đòi hỏi Nhà nước phải có các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt đối với các sản phẩm hàng hóa được mua bán qua kênh thương mại điện tử, các sản phẩm kỹ thuật số khi mà chúng dễ bị sao chép và phát tán trên internet.

Ngoài ra, các quy định về sở hữu trí tuệ được cải thiện sẽ thúc sự phát triển của các công nghệ của Cách mạng Công nghiệp 4.0 như AI, blockchain, dữ liệu lớn,...

Luật chưa đủ sức răn đe đối với vi phạm

Báo cáo “Cải cách kinh tế nhằm bảo hộ sở hữu trí tuệ hiệu quả trong bối cảnh hội nhập kinh tế và chuyển đổi số ở Việt Nam” đã rà soát các quy định về SHTT trong các cam kết quốc tế và văn bản pháp luật của Việt Nam. Các quy định hiện hành của Việt Nam đã cơ bản phù hợp với các quy định về thực thi quyền theo các điều ước quốc tế. 

Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp, CIEM nhận định, thực trạng thi hành Luật sở hữu trí tuệ phần nào cho thấy sự quan tâm chưa đúng mức của khối doanh nghiệp, các trường đại học và viện nghiên cứu đối với lĩnh vực này. 

Ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp, CIEM

Về xử lý các tranh chấp phát sinh đối với quyền sở hữu trí tuệ, nhiều vụ việc đã được xử phạt hành chính, tập trung chủ yếu ở hàng nhái, hàng giả về nhãn hiệu hoặc vi phạm kiểu dáng công nghiệp. 

Tuy nhiên, số tiền xử phạt hành chính tương đối thấp và chưa thực sự đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm Luật Sở hữu trí tuệ. Một yêu cầu đặt ra cho sửa đổi, bổ sung Luật sở hữu trí tuệ là phải giúp tiếp cận, nắm bắt được các xu hướng hội nhập đang diễn ra trên thế giới.

Trong đó có xu hướng hợp tác về kinh tế số. Mặc dù mới hình thành từ năm 2020, các hiệp định hợp tác về kinh tế số đã nhận được rất nhiều sự chú ý từ các quốc gia. Thực tế, Việt Nam chưa tham gia các hiệp định hợp tác về kinh tế số, tuy nhiên, cũng cần suy nghĩ đến việc sửa Luật Sở hữu trí tuệ theo hướng “đón đầu” xu hướng hợp tác quốc tế này để chủ động có những chuẩn bị cần thiết. 

Song song với đó, Việt Nam cần lưu tâm đến bảo vệ cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ và lợi ích xã hội, tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, phù hợp với thực tiễn của một nền kinh tế đang phát triển.

Theo đó, ông Dương đã trình bày Báo cáo và đưa ra bốn nhóm kiến nghị chính sách đối với sửa đổi, bổ sung Luật sở hữu trí tuệ.

Thứ nhất, cách tiếp cận đối với việc sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ cần hướng tới nội luật hóa sớm hơn và cao hơn so với các cam kết quốc tế để tạo động lực cho doanh nghiệp và thích ứng với môi trường chuyển đổi số.

Thứ hai, cần nâng cao năng lực và ý thức bảo hộ Sở hữu trí tuệ cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân (đặc biệt là ở nước ngoài).

Thứ ba, cần vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp trực tuyến trong việc xử lý dân sự các tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ để giảm chi phí cho doanh nghiệp và cá nhân.

Thứ tư, cần đấy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong quản lý sở hữu trí tuệ. Cần tính đến khả năng hợp nhất một số cơ quan quản lý sở hữu trí tuệ, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan này.