Kinh tế vĩ mô

Làm đường cao tốc: Ngân sách nhà nước sẽ đóng vai trò “vốn mồi”

Cần huy động mọi nguồn lực tham gia đầu tư đường bộ cao tốc, chủ yếu triển khai đầu tư theo phương thức đối tác công tư.

2050 hình thành 41 tuyến với 9.014km cao tốc

Sáng ngày 15/9, Bộ GTVT công bố quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định 1454 ngày 1/9/2021.

Thứ trưởng Bộ GTVT Lê Đình Thọ cho biết, đây là quy hoạch đầu tiên trong 5 quy hoạch chuyên ngành giao thông vận tải được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Xác định công tác lập quy hoạch là nhiệm vụ rất quan trọng đối với sự phát triển của ngành GTVT, Bộ GTVT đã chỉ đạo sát sao việc lập uy hoạch với nỗ lực cao nhất để đảm bảo chất lượng, tiến độ.

"Bộ GTVT đã tổ chức lấy ý kiến rộng rãi thông qua hội thảo 3 miền Bắc, Trung, Nam và lấy ý kiến 63 địa phương, 16 Bộ và cơ quan ngang bộ, các cơ quan, tổ chức, hiệp hội, nhà khoa học; ý kiến hội đồng thẩm định, ý kiến thường trực Chính phủ", Thứ trưởng thông tin.

Thứ trưởng Lê Đình Thọ phát biểu tại Lễ công bố.

Đề cập đến những điểm nổi bật của quy hoạch, Thứ trưởng Lê Đình Thọ cho biết, quy hoạch đường bộ bám sát chủ trương và định hướng văn kiện các kỳ Đại hội Đảng, đặc biệt là Đại hội lần thứ XII, XIII và tuân thủ Luật Quy hoạch.

Bên cạnh đó, quy hoạch cũng có tính kế thừa quan điểm còn giá trị của quy hoạch trước đây, đặc biệt là dự báo, phân tích kỹ vai trò lợi thế từng phương thức vận tải trên 30 hành lang vận tải chính, để tăng cường tính kết nối đồng bộ giữa các chuyên ngành cũng như kết nối các vùng miền; đồng bộ với các quy hoạch các ngành, địa phương.

Về kết cấu hạ tầng, quy hoạch hướng đến hình thành hệ thống đường cao tốc kết nối các trung tâm kinh tế, chính trị, các vùng kinh tế trọng điểm, cảng biển và cảng hàng không cửa ngõ quốc tế. Bên cạnh đó, từng bước nâng cấp các quốc lộ đạt chuẩn.

“Quy hoạch đến năm 2030 xây dựng hoàn thành khoảng 5.000 km đường bộ cao tốc và 172 tuyến quốc lộ, tổng chiều dài 29.795 km, đến năm 2050 hình thành 41 tuyến với 9.014km cao tốc và quy hoạch đường ven biển vào hệ thống quốc lộ.

Điều chỉnh điểm đầu, cuối cao tốc Bắc – Nam phía Đông từ Lạng Sơn đến Cà Mau, điều chỉnh về chiều dài và quy mô đối với cao tốc vành đai đô thị Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, tuỳ theo nhu cầu phát triển đô thị, có thể đi trên cao một số đoạn", Thứ trưởng nói.

Với quy hoạch trên sẽ đảm bảo khối lượng vận chuyển hàng hóa đạt khoảng 2,76 tỷ tấn (chiếm 62,80% thị phần); hành khách đạt 9,4 tỷ lượt hành khách (chiếm 90,16% thị phần).

Đến năm 2030, cả nước có khoảng 5.004 km đường bộ cao tốc, đến năm 2050 mạng lưới đường bộ cao tốc cơ bản hoàn thiện với 41 tuyến, tổng chiều dài khoảng 9.014 km. 

Đảm bảo tính khả thi của quy hoạch

Về cơ chế, chính sách Thứ trưởng bộ GTVT cho biết, cần tiếp tục rà soát các bất cập, chồng chéo trong các quy định của pháp luật bảo đảm tính ổn định, thống nhất, đồng bộ để thu hút nguồn lực đầu tư, đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án.

Về nguồn vốn đầu tư: huy động mọi nguồn lực tham gia đầu tư đường bộ cao tốc, theo đó các dự án chủ yếu triển khai đầu tư theo phương thức đối tác công tư, vốn ngân sách nhà nước sẽ đóng vai trò “vốn mồi”. Ngoài ra, việc huy động ngân sách địa phương tham gia đầu tư các tuyến cao tốc trên địa bàn cũng đa dạng thêm nguồn lực đầu tư thay vì chỉ “trông chờ” vào ngân sách trung ương như đã triển khai trong trước đây.

Sau khi đánh giá sự thành công của các mô hình địa phương triển khai đầu tư dự án đường bộ cao tốc như Quảng Ninh, Lạng Sơn, Tiền Giang… việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp đầu tư cho các địa phương cũng là đổi mới tư duy quản lý trong giai đoạn tới.

Đặc biệt, cần huy động sự vào cuộc toàn bộ hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương và của các cấp, các ngành để đảm bảo tính khả thi của Quy hoạch.

“Với những quyết tâm cao, nỗ lực không ngừng và cầu thị trong công tác lập quy hoạch, Bộ GTVT tin tưởng Quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kì 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2050 sẽ là động lực để thúc đẩy hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng GTVT đồng bộ, hiện đại góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đảng, Chính phủ đề ra”, Thứ trưởng Lê Đình Thọ nói.

Theo quy hoạch, đối với hệ thống cao tốc: tính đến năm 2030, cả nước có khoảng 5.004 km đường bộ cao tốc (tăng khoảng 3.841 km so với với năm 2021), đến năm 2050 mạng lưới đường bộ cao tốc cơ bản hoàn thiện với 41 tuyến, tổng chiều dài khoảng 9.014 km, bao gồm:

Trục dọc Bắc Nam (2 tuyến): Tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Đông (Từ Lạng Sơn - Cà Mau) chiều dài khoảng 2.063 km, quy mô 4 - 10 làn xe; Tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Tây, chiều dài khoảng 1.205 km, quy mô 4 - 6 làn xe; Khu vực phía Bắc gồm 14 tuyến, chiều dài khoảng 2.305 km, quy mô 4 - 6 làn xe; Khu vực miền Trung - Tây Nguyên gồm 10 tuyến, chiều dài khoảng 1.431 km, quy mô 4 - 6 làn xe; Khu vực miền Nam gồm 10 tuyến, chiều dài khoảng 1.290 km, quy mô 4 - 10 làn xe.  Vành đai đô thị Thủ đô Hà Nội gồm 3 tuyến, chiều dài khoảng 425 km, quy mô 4 - 6 làn xe; vành đai đô thị Thành phố Hồ Chí Minh gồm 2 tuyến, chiều dài khoảng 295 km, quy mô 4 - 8 làn xe.

Hệ thống quốc lộ: bao gồm 172 tuyến với tổng chiều dài khoảng 29.795 km (tăng 5.474 km so với năm 2021), phân chia thành quốc lộ chính yếu và thứ yếu, tiêu chuẩn kỹ thuật tối thiểu cấp III đối với đoạn đường thông thường và cấp IV đối với đoạn khó khăn. Cụ thể,

Quốc lộ 1: Từ Cửa khẩu Hữu Nghị, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đến huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau có chiều dài 2.482km, đạt tiêu chuẩn cấp II, 4 làn xe.

Đường Hồ Chí Minh từ Pác Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng đến Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau có chiều dài 1.762km, đạt tiêu chuẩn tối thiểu cấp III, 2 đến 4 làn xe.

Khu vực phía Bắc: tuyến quốc lộ chính yếu gồm 21 tuyến, chiều dài khoảng 6.954km, quy mô tối thiểu cấp III, 2 đến 6 làn xe, một số đoạn tuyến qua địa hình khó khăn quy mô tối thiểu cấp IV, 2 làn xe.

Tuyến quốc lộ thứ yếu gồm 34 tuyến, chiều dài khoảng 4.007 km, quy mô tối thiểu cấp III, 2 đến 4 làn xe, một số đoạn tuyến qua địa hình khó khăn quy mô tối thiểu cấp IV, 2 làn xe.

Các tuyến quốc lộ trên địa bàn Thủ đô Hà Nội từ Vành đại 4 trở vào được tổ chức quản lý, bảo trì theo Luật Thủ đô.

Khu vực miền Trung, Tây Nguyên: Tuyến quốc lộ chính yếu gồm 24 tuyến với chiều dài khoảng 4.407 km, quy mô tối thiểu cấp III, 2 đến 4 làn xe, một số đoạn tuyến qua địa hình khó khăn quy mô tối thiểu cấp IV, 2 làn xe.

Tuyến quốc lộ thứ yếu gồm 47 tuyến, chiều dài khoảng 4.618 km, quy mô tối thiểu cấp III, 2 đến 4 làn xe, một số đoạn tuyến qua địa hình khó khăn quy mô tối thiểu cấp IV, 2 làn xe

Khu vực phía Nam: Tuyến quốc lộ chính yếu gồm 17 tuyến với chiều dài khoảng 2.426 km, quy mô tối thiểu cấp III, 2 đến 4 làn xe, một số tuyến có lưu lượng vận tải lớn quy mô cấp III, 4 đến 6 làn xe.

Tuyến quốc lộ thứ yếu gồm 27 tuyến, chiều dài khoảng 3.139 km, quy mô tối thiểu cấp III, 2 đến 4 làn xe.

Các tuyến quốc lộ trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh do địa phương quản lý, bảo trì.

Đường bộ ven biển: Qua địa phận 28 tỉnh, thành phố, tổng chiều dài khoảng 3.034 km, quy mô 2 - 4 làn xe, hướng tuyến các đoạn không đi trùng các quốc lộ, cao tốc được quyết định trong quy hoạch tỉnh.