Kinh tế vĩ mô

Khai thác các thị trường tiềm năng tại EU với lợi thế từ Hiệp định EVFTA

Mới đây, UBND tỉnh Quảng Nam phối hợp với Bộ Công Thương tổ chức Hội thảo khai thác các thị trường tiềm năng và thị trường ngách tại EU với lợi thế từ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) - kết nối với hệ thống phân phối quốc tế.

Tham dự hội thảo có các sở Công Thương các tỉnh khu vực miền Trung, Tây Nguyên; tham tán thương mại Việt Nam tại các địa bàn Bắc Âu, Đông Âu, Nam Âu; hiệp hội ngành hàng; các nhà nhập khẩu EU, Tập đoàn Walmart; các tổ chức tư vấn cùng trên 100 doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu uy tín.

Hội thảo với mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tận dụng hiệu quả Hiệp định thương mại tự do EVFTA thông qua việc cung cấp, cập nhật thông tin thị trường chuyên sâu. Đồng thời, giới thiệu, kết nối các doanh nghiệp Việt Nam với các nhà nhập khẩu và hệ thống phân phối quốc tế.

Qua đó, cung cấp, phổ biến thông tin chuyên sâu, đặc thù của các thị trường tiềm năng, thị trường ngách tại EU như: quy mô thị trường, cung cầu, tình hình cạnh tranh, thị hiếu tiêu dùng, hệ thống phân phối, logistics... Cùng đó, hội thảo cập nhật các chính sách, quy định nhập khẩu hàng hóa và cách thức tiếp cận, thâm nhập từng thị trường, khu vực thị trường cụ thể Bắc Âu, Đông Âu, Nam Âu. Ngoài ra, nhận định thuận lợi, khó khăn và dư địa tiềm năng của các thị trường ngách EU để từ đó tư vấn, khuyến nghị cần thiết cho doanh nghiệp...

Phát biểu tại hội thảo bà Nguyễn Thảo Hiền, Phó vụ trưởng Vụ thị trường Châu Âu - Châu Mỹ, Bộ Công Thương cho biết: EU là đối tác thương mại hành đầu của Việt Nam, thị trường xuất khẩu lớn thứ 3. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân đạt 7,5%/năm, chiếm tỷ trọng bình quân 13,6%/năm trong tổng xuất khẩu của cả nước. Năm 2021 và những tháng đầu năm 2022, trao đổi thương mại hai chiều Việt Nam - EU tiếp tục đà phục hồi và tăng trưởng rất mạnh, kể cả so với thời kỳ trước đại dịch. 

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan năm 2021, xuất nhập khẩu Việt Nam - EU đạt 57,01 tỷ USD, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó,  xuất khẩu đạt 40,1 tỷ USD, tăng 14,2%; nhập khẩu đạt 16,9 tỷ USD, tăng 15,3%.

10 tháng năm 2022, xuất nhập khẩu Việt Nam - EU đạt 52,5 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2021; trong đó, xuất khẩu đạt 39,7 tỷ USD, tăng 23,5%; nhập khẩu đạt 12,7 tỷ USD.

Thị trường xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang hầu hết các thị trường trong khối EU. Xuất khẩu dần được đẩy mạnh sang các thị trường nhỏ hơn, thị trường ngách như tại Đông Âu, Nam Âu, Bắc Âu.

10 tháng năm 2022, xuất nhập khẩu Việt Nam - EU đạt 52,5 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2021; trong đó, xuất khẩu đạt 39,7 tỷ USD, tăng 23,5%; nhập khẩu đạt 12,7 tỷ USD.

Về chủng loại hàng hóa xuất khẩu vào EU cũng có xu hướng mở rộng và đa dạng như: máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng; giày dép các loại; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện hàng dệt, may đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận hang thủy sản, cà phê….

Tại hội thảo, nhiều ý kiến đưa đề xuất triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại và hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng Hiệp định EVFTA thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa sang EU. Đồng thời, đưa ra những vướng mắc doanh nghiệp Việt Nam gặp phải khi xuất khẩu sang EU và những lưu ý khuyến nghị cần thiết khi EU tăng cường áp dụng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật mới. Các ý kiến cũng tập trung nhận định thuận lợi, khó khăn và cách thức tiếp cận, thâm nhập thị trường một số nước như Ba Lan và Đông Âu.

Doanh nghiệp vẫn đang tận dụng tốt Hiệp định EVFTA

Đầu tháng 11 vừa qua, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã phối hợp với Viện FNF Việt Nam tổ chức Hội thảo: “Đánh giá 2 năm thực thi EVFTA tại Việt Nam từ góc nhìn doanh nghiệp”. Đồng thời, công bố báo cáo “Việt Nam sau 2 năm thực thi EVFTA từ góc nhìn doanh nghiệp” dựa trên kết quả khảo sát hơn 500 doanh nghiệp trên cả nước và nghiên cứu rà soát đánh giá các văn bản pháp luật thực thi EVFTA trong 2 năm qua.

Theo ông Hoàng Quang Phòng - Phó Chủ tịch VCCI, tổng kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang EU sau 2 năm đầu tiên thực thi Hiệp định EVFTA (từ tháng 8/2020-7/2022) đạt 83,4 tỷ USD, tức trung bình 41,7 tỷ USD/năm, cao hơn tới 24% so với kim ngạch xuất khẩu trung bình năm giai đoạn 2016-2019 trước đó. Tỷ lệ hàng xuất khẩu tận dụng ưu đãi thuế quan EVFTA năm 2020 đạt 14,8%, tăng lên 20,2% năm 2021 và 24,5% trong 6 tháng năm 2022.

Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), theo số liệu từ VCCI, FDI của EU vào Việt Nam năm 2020 đạt gần 1.376 triệu USD vốn đăng ký, giảm 8,6% so với năm 2019, đứng thứ 8 và chiếm 4,8% tổng vốn FDI vào Việt Nam.

Năm 2021, tình hình thu hút FDI có cải thiện hơn, với tổng vốn đầu tư hơn 1.405 triệu USD, tăng 2,2%, giúp EU vươn lên đứng thứ 5, nhưng tỷ trọng trong tổng FDI giảm nhẹ, chiếm 4,5%. Đặc biệt, tổng vốn đầu tư bình quân năm 2017-2021 tăng 86% so với thời gian 2015-2016 liền trước đó. Tuy nhiên, đầu tư vào Việt Nam mới chỉ chiếm một tỷ trọng rất khiêm tốn trong tổng đầu tư ra nước ngoài của EU.

Phát biểu tại hội thảo, bà Nguyễn Cẩm Trang - Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho rằng: EVFTA đã góp phần đáng kể thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường đối tác. Cụ thể, trong 2 năm thực thi Hiệp định EVFTA, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng sang thị trường EU như: Sắt thép tăng 739%; máy ảnh, máy quay phim, linh kiện tăng 260%; máy móc và thiết bị tăng 82,3%.

Tỷ lệ các doanh nghiệp Việt Nam từng được hưởng lợi từ EVFTA là rất khả quan

Cùng với đó, một số mặt hàng mới cũng có tăng trưởng cao sang thị trường EU trong giai đoạn này như: Gạo, sản phẩm mây tre, cói thảm tăng trên 50%; các sản phẩm gốm, sứ tăng trên 25%; nhóm rau quả, dây điện và dây cáp điện tăng trên 15%.

Từ góc độ của từng doanh nghiệp, thông tin từ kết quả khảo sát về EVFTA được bà Nguyễn Thị Thu Trang - Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập - VCCI thông tin: Tỷ lệ các doanh nghiệp Việt Nam từng được hưởng lợi từ EVFTA là rất khả quan, với gần 41% doanh nghiệp cho biết, đã từng được hưởng ít nhất một lợi ích nào đó từ EVFTA.

“Trong đó, lợi ích phổ biến nhất là từ các ưu đãi thuế quan đối với hàng xuất nhập khẩu và hiệu ứng tích cực trong gia tăng đơn hàng, doanh thu, lợi nhuận”, bà Nguyễn Thị Thu Trang nhấn mạnh.

Chất lượng ổn định là yếu tố quan trọng 

Bất luận mẫu mã, dịch vụ hậu mãi, giá cả... có linh động đến đâu, có theo xu hướng thế nào thì theo ông Nguyễn Đình Tùng, chất lượng ổn định vẫn là yếu tố tiên quyết.

“Tôi nghiên cứu thị trường nước ngoài nhiều, nhận thấy rằng nông sản của họ sản xuất đâu ra đấy, hàng hóa đồng nhất về chất lượng, kích cỡ. Lô hàng nào cũng ổn định như nhau. Đó chính là điều mà vùng nguyên liệu của Việt Nam còn hạn chế. Nông sản Việt Nam trong nước giá rẻ, nhưng bán sang nước ngoài giá trị tăng gấp hàng chục lần. Điều đó chứng tỏ giá bán không phải là vấn đề quan trọng, mà các thị trường yêu cầu chúng ta phải đảm bảo chất lượng và uy tín. Tuy kết quả trước mắt có thể khích lệ ngành xuất khẩu rau củ quả của nước ta, nhưng trong tương lai gần phải cạnh tranh gay gắt với sản phẩm của nhiều nước. Thái Lan đang xúc tiến đàm phán để ký FTA với EU, nên sản phẩm của Việt Nam phải cạnh tranh với họ trên thị trường châu Âu. Khi đó, lợi thế về thuế suất cũng không còn là sức mạnh cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam”, ông Tùng chia sẻ với Thanh Niên. 

Cùng quan điểm này, ông Nguyễn Ngọc Luận đúc kết: “Kinh nghiệm của chúng tôi sau một thời gian dài xuất khẩu sang các thị trường khó tính, đó là chúng ta phải làm chuẩn ngay từ đầu. Khi bán sang thị trường nước ngoài là chinh phục khách hàng ngay chứ không có chuyện vừa làm vừa sửa sai. Ví dụ như ở châu Âu hay ở Úc, thương hiệu chúng ta có trụ vững được hay không là ở ngay lô hàng đầu tiên chúng ta đưa qua có được thị trường chấp nhận hay không. Nếu thất bại, rất khó để điều chỉnh khi mà người tiêu dùng đã bị ấn tượng xấu. Đối với nông sản Việt Nam, tại các nước chúng ta rất nổi tiếng, nhưng thực tế vẫn còn tình trạng chất lượng không đồng đều, được vài lô đầu thì lại có lô bị lỗi. Do đó cần phải liên kết ngay từ vùng nguyên liệu, đến khâu thu hoạch, chế biến, chiếu xạ…”.

Theo Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công thương), dù mặt hàng rau củ quả của Việt Nam tươi ngon, nhưng chưa khai thác hết tiềm năng và qua mặt được các nước xuất khẩu nông sản khác. Giống rau củ quả trong nước chưa có sự khác biệt nên ở thị trường xuất khẩu, hàng Việt Nam chỉ tương đồng với hàng Thái Lan. Trong khi đó, những loại trái cây có chỉ dẫn địa lý như táo và cherry của Mỹ, kiwi của New Zealand đã làm được điều này. Chất lượng hàng xuất khẩu của nước ta vẫn rất cần được cải thiện. Từng có trường hợp nhiều lô hàng qua EU bị trả về tới 80-90%, thậm chí 100% nên cần phải hết sức cẩn thận để giữ vững uy tín.

Hương Anh (tổng hợp)