Văn hoá

Gợi nhớ cội nguồn từ “Hồn tre Tây Nguyên”

“Hồn tre Tây Nguyên” không chỉ nhắc nhớ cội nguồn mà còn góp phần gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.

Nét văn hóa đặc sắc

Đan lát ở Tây Nguyên là một nghề thủ công truyền thống tiêu biểu, thể hiện nét đặc trưng văn hóa của các dân tộc thiểu số. Theo đó, ở các buôn, làng Tây Nguyên không khó để bắt gặp những vật dụng làm từ tre, nứa... sử dụng trong sinh hoạt và lao động sản xuất như: Sàng, mẹt, đồ bắt cá, giỏ nhốt gà... được sáng tạo thông qua bàn tay khéo léo của người nam giới trong những ngày nông nhàn.

Trong các vật dụng sinh hoạt làm từ tre, nứa của người đồng bào các dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên (gọi tắt là người Tây Nguyên) phải kể đến gùi – loại vật dụng gắn bó chặt chẽ với người Tây Nguyên. Qua bàn tay khéo léo của những người đàn ông, đã tạo ra những chiếc gùi phục vụ cho mục đích sinh hoạt hàng ngày như: Gùi đựng lúa, gùi đựng ngô, khoai, sắn hay gùi có nắp đậy để đựng các tài sản quý trong gia đình...

Qua bàn tay khéo léo của những người đàn ông đã tạo ra chiếc gùi phục vụ cho mục đích sinh hoạt hàng ngày của người Tây Nguyên.

Gùi không những là vật dụng để sử dụng sinh hoạt hàng ngày mà còn là món quà tặng của người ông, người cha, người chồng tặng cho vợ, các cô con gái, cháu gái trong gia đình. Theo quan niệm của người đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, đã là con gái Tây Nguyên thì phải biết gùi rau, nước, lương thực và gùi trên lưng tất cả ước mơ, khát vọng mà buôn làng chưa ai dám nghĩ, dám làm.

Để có được những chiếc gùi đẹp, bền thì cứ vào tháng 7 dương lịch hàng năm, đàn ông trong buôn lại dậy từ tờ mờ sáng lên núi chọn cây tre, nứa, lồ ô... về làm gùi. Theo đó, họ thường chọn những cây tre có độ tuổi từ 3 năm trở lên để làm gùi, phục vụ đan lát và chỉ chặt vào những ngày cuối tháng, không có trăng. Bởi cây tre đầu tháng chứa nhiều nước nên khi sấy mất nhiều thời gian và dễ bị mọt. Đặc biệt, tre phải thẳng đều và dài thì mới cho ra sợi nan suôn mượt, để khi đan không phải nối nhiều đoạn. Đối với cây nứa, phải chọn nứa bánh tẻ, khoảng 12 tháng tuổi trở lên.

Các nghệ nhân tỉ mỉ trong từng thao tác khi đan lát, làm nhạc cụ từ tre, nứa.

Ngoài việc chọn nguyên liệu đúng chuẩn thì công đoạn vót, chẻ nan cũng mang yếu tố quyết định để hoàn thiện một sản phẩm đan lát đẹp. Theo đó, chẻ nan mỏng hay dày là phụ thuộc vào sản phẩm sẽ được đan. Sau khi chẻ nan, phải chuốt nan sao cho nan có độ mềm, nhẵn và đều, để khi đan các nan khiết vào nhau và không tạo ra kẻ hở. Đối với những sợi nan tạo hoa văn được để riêng, vót trước khi đan. Loại nan này được tạo màu bằng cách xát lá rừng lên từng sợi, màu đậm hay nhạt tùy thuộc vào việc xát lá rừng nhiều hay ít.

Ngoài ra, để gùi bền và chắc thì đế gùi đóng vai trò rất quan trọng. Do đó, đế gùi thường được làm bằng các loại gỗ mềm (thường là gỗ cây cóc rừng) hoặc dùng 4 thanh tre già, chắc siết chặt ở 4 góc để tạo điểm tựa vững chãi, không bị đổ khi được thả xuống.

Nhiều dụng cụ sinh hoạt được làm từ tre, nứa, lồ ô...

Kể chuyện bằng âm nhạc

Bên cạnh những chiếc gùi, cây tre, cây nứa, lồ ô... đã được cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên sáng tạo ra thành những nhạc cụ dân tộc độc đáo, gắn với những bản hòa âm của núi rừng. Đặc biệt, thông qua các nhạc cụ tre, nứa, người Tây Nguyên đã kể những câu chuyện bằng âm nhạc về văn hóa tộc người, ngợi ca hình ảnh vùng đất, con người Tây Nguyên.

Theo đó, sau những buổi lao động sản xuất, người Tây Nguyên thường dùng những vật dụng sẵn có ngay bên mình như tre, nứa, quả bầu khô... để “bắt” chúng cất lên âm thanh làm xua đi mệt nhọc. Dần dà, các nhạc cụ ấy ngày càng hoàn thiện, đa dạng, phong phú về số lượng, cấu trúc, đặc sắc về âm thanh, tạo nên vẻ độc đáo riêng có của nền âm nhạc cổ truyền dân tộc.

Đàn T'rưng gắn với mọi sinh hoạt đời thường của các dân tộc Tây Nguyên.

Nghệ nhân Y Thứ Niê (73 tuổi, trú tại Tp.Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) cho biết, để chế tác những cây đàn truyền thống ưng ý, người chế tác phải chọn tre, nứa già, trên 3 năm tuổi.

Sau khi chặt về, các cây tre, nứa này được mang ra phơi khô từ 1-2 tháng. Sau đó, gọt, đẻo và thử nhiều lần đến khi nào ưng ý mới thôi. Đáng nói, việc cắt, gọt để chế tác các cây đàn từ tre, nứa cũng rất khó khăn. Theo đó, con dao dùng để cắt, gọt phải sắc và người chế tác phải tỉ mỉ làm từng chút một. Bởi nếu cắt thừa hoặc thiếu thì âm thanh sẽ chênh, phô.

Hơn thế nữa, muốn tạo lên những giai điệu kỳ diệu cho những cây đàn thì rất cần sự kỳ công, khéo léo của người chế tác, làm sao cho mỗi ống nứa, tre đều trở thành từng nốt nhạc và khi tấu lên lại thành dàn hòa âm đa thanh vang vọng núi rừng.

Hoạt động trưng bày "Hồn tre Tây Nguyên" thu hút nhiều khách tham quan.

Trong các loại nhạc cụ dân gian từ tre, nứa của người Tây Nguyên, phải kể đến là đàn T’rưng. Đây là loại nhạc cụ gắn với mọi sinh hoạt đời thường của người Tây Nguyên. Trên nương rẫy, tiếng T’rưng xua đi cái mệt mỏi của ngày lao động “lưng ngửa, mặt sấp”, báo cho bầy thú sự hiện diện của con người, khiến chúng sợ không dám đến phá rẫy. Trong lễ hội, T’rưng là niềm vui say sưa, là rộn ràng tiếng hát. Cứ thế, tiếng T’rưng như suối chảy, chim kêu, rộn ràng vui khắp buôn làng. Đặc biệt, dáng của đàn T’rưng được làm cong như dáng núi đồi, thể hiện sự hòa quện với thiên nhiên.

Hay đó là những chiếc Cing Kram (chiêng tre) được làm từ cây tre có độ tuổi từ 2-3 năm, là nhạc cụ thường xuyên được sử dụng trong các dịp lễ hội của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Xuất phát từ quan niệm, số lẻ thường mang lại những điều may mắn một bộ chiêng tre của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thường có 5, 7 hoặc 9 chiếc, cũng có khi lên đến 19 chiếc hợp thành một dàn chiêng. Khi diễn tấu, người đánh kẹp ống tre vào 2 đùi, đặt thanh tre già nằm ngang phía trên miệng ống, một đầu kê lên đùi, một đầu đỡ bằng lòng bàn tay trái. Tay phải cầm khúc cây làm dùi, gõ vào giữa thanh tre cho âm thanh cộng hưởng ống tre.

Nhiều bạn trẻ đến tham quan, tìm hiểu văn hóa các dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên thông qua các hình ảnh, câu chuyện, sản phẩm từ tre, nứa.

Trân quý những giá trị văn hóa đặc sắc của các dân tộc sinh sống ở Tây Nguyên, đồng thời khắc họa sự sáng tạo, tài hoa của những cư dân trên mảnh đất cao nguyên hùng vĩ, Bảo tàng Đắk Lắk đã phối hợp với Bảo tàng & Homestay Ama H’Mai thực hiện trưng bày chuyên đề “Hồn tre Tây Nguyên” thông qua những hình ảnh, câu chuyện, các sản phẩm từ tre, nứa. Hoạt động này diễn ra từ ngày 19/4 đến hết ngày 31/5. Qua đó, giới thiệu đến du khách 109 hình ảnh, 55 hiện vật cùng những câu chuyện, các sản phẩm làm từ tre, nứa. Từ đó, nói lên đời sống văn hóa của đồng bào dân tộc đang sinh sống tại Tây Nguyên nói chung, tỉnh Đắk Lắk nói riêng luôn gắn liền với núi rừng. Đồng thời, nhằm bảo tồn, phát huy giá trị bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên.

Ông Đinh Một, Giám đốc Bảo tàng Đắk Lắk cho biết, cư dân bản địa ở vùng rừng núi nói chung và Tây Nguyên nói riêng có những sáng tạo mà nhiều người không thể tưởng tượng được. Từ nhu cầu cuộc sống, họ đã sử dụng những vật dụng thân thuộc tạo ra nhiều dụng cụ sản xuất, sinh hoạt

Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, văn hóa truyền thống đang đứng trước nguy cơ bị mai một, mất dần bản sắc. Đáng nói, giới trẻ hiện nay đã không còn mấy mặn mà với nhạc cụ truyền thống của dân tộc mình mà quan tâm nhiều đến các loại hình âm nhạc hiện đại. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của những vật dụng bằng nhựa, kim loại cũng làm cho nghề đan lát truyền thống gặp nhiều khó khăn. Do đó, công tác bảo tồn và phát huy giá trị của nghề chế tác nhạc cụ dân gian và đan lát truyền thống là nhiệm vụ luôn được các ngành quan tâm.

“Thông qua trưng bày chuyên đề “Hồn tre Tây Nguyên”, chúng tôi muốn nhắc cho các thế hệ trẻ nhớ, quan tâm lại cội nguồn của mình để cùng nhau góp phần gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của cha ông để lại. Đồng thời, tạo ra sự phong phú trong đời sống văn hóa” – ông Một cho hay.

 Khánh Ngọc