Kinh tế vĩ mô

Đưa logistics trở thành “đòn bẩy” cho nông sản Việt

Theo ông Nguyễn Thắng Lợi, logistics nông sản tại Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn, đặc biệt thiếu chuỗi cung ứng nông sản để đảm bảo chất lượng hàng hoá xuất khẩu.

Xuất khẩu nông sản Việt còn thách thức

Tại Toạ đàm Tăng cường năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam, TS. Trần Thị Thu Hiền - Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công Tthương đánh giá, xuất khẩu nông sản có vai trò quan trọng trong nền kinh tế mỗi quốc gia.

Theo bà, xuất khẩu nông sản đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, phong phú và đa dạng của người tiêu dùng, giúp giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống của người dân và thúc đẩy phát triển kinh tế của đất nước.

Hiện nay, chính sách hội nhập quốc tế mở ra nhiều cơ hội thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực nhờ cắt giảm thuế quan như các mặt hàng gạo, cà phê, thủy sản, rau quả.

Trước hết, nhu cầu về lương thực, thực phẩm có xu hướng tăng mạnh trong bối cảnh ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu, sự mất ổn định và biến động về kinh tế, chính trị thế giới, mối lo ngại về an ninh lương thực mở ra nhiều cơ hội trong xuất khẩu nông sản của Việt Nam.

TS. Trần Thị Thu Hiền - Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương phát biểu tại tọa đàm.

Với nhiều thuận lợi trong sản xuất các mặt hàng nông sản chủ lực như hoa quả vùng nhiệt đới đặc trưng cho khí hậu của nước ta và nhiều mặt hàng đạt tiêu chuẩn kỹ thuật, đáp ứng được nhu cầu nhiều thị trường, trữ lượng ngày càng lớn và có thể cung cấp cho những thị trường có nhu cầu tiêu thụ cao như Trung Quốc.

Việt Nam có cơ hội tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Trong đó, CPTPP (Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương) và EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU) là hai Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với nhiều cam kết rất chặt chẽ.

Từ khi EVFTA có hiệu lực từ tháng 8/2020, các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam xuất sang EU đã tăng lên hơn 20% trong những năm vừa qua.

Tuy nhiên, bà Hiền quan ngại quá trình hội nhập làm thu hẹp một số lĩnh vực sản xuất có khả năng cạnh tranh thấp. Các nước đang phát triển mạnh sản xuất nông sản với chất lượng cao cũng trở thành đối thủ cạnh tranh của Việt Nam trên các thị trường xuất khẩu gạo như Campuchia, Myanmar, xuất khẩu thủy sản như Ấn Độ, Mexico, Indonesia.

Thị trường tiêu dùng hàng nông sản hướng đến các sản phẩm tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường, trách nhiệm xã hội đòi hỏi các sản phẩm được khai thác hợp lý. Các quốc gia và người tiêu dùng trên thế giới đang đặt mục tiêu phát triển bền vững, giảm phát thải carbon.

Nông sản Việt Nam đối mặt với nguy cơ chịu mức thuế đối với sản 16 phẩm có mức phát thải lớn. Đây cũng là một trong những thách thức với xuất khẩu nông sản Việt Nam. Trong khi hệ thống truy xuất nguồn gốc, quản lý khai thác chưa được thực hiện bài bản, nhiều doanh nghiệp nông nghiệp bắt đầu quá trình đổi mới để thích ứng được với bối cảnh mới.

Cần chú trọng phát triển logistics

Theo Ths. Nguyễn Thắng Lợi – Trưởng Ban nghiên cứu Viện Nghiên cứu và phát triển logistics Việt Nam, hiện trạng logistics nông sản tại Việt Nam hiện nay đang gặp nhiều khó khăn về hạ tầng, chính sách, đặc biệt là vấn đề thiếu chuỗi cung ứng nông sản để đảm bảo chất lượng hàng hoá xuất khẩu.

Ths. Nguyễn Thắng Lợi – Trưởng Ban nghiên cứu Viện Nghiên cứu và phát triển logistics Việt Nam phát biểu tại tọa đàm.

Logistics trong nông nghiệp là một chuỗi các hoạt động: thu hoạch, sơ chế, bảo quản, đóng gói, kho bãi, làm thủ tục hải quan, vận chuyển hàng hoá với mục đích chuyển sản phẩm nông nghiệp từ Nhà nông (vùng nguyên liệu) – nhà cung cấp đến người tiêu dùng một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất.

Đối với ngành nông nghiệp, logistics ngày càng đóng vai trò quan trọng và được xác định là lực đẩy để nâng cao giá trị gia tăng cho nông sản Việt. Do đó, ông Lợi đã đề xuất một số giải pháp nhằm đưa logistics trở thành “đòn bẩy” cho nông sản Việt.

Theo đó, đối với cơ quan quản lý, cần chú trọng quy hoạch mạng lưới hạ tầng logistics và đầu tư hạ tầng cho hạ tầng vận tải kết nối đầu nguồn thu hoạch – hạ tầng trung tâm logistics phục vụ hàng nông sản.

Cùng với đó, tăng cường kết nối hạ tầng logistics nhằm thúc đẩy liên kết vùng để sử dụng nguồn lực toàn vùng hiệu quả, có chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho ngành dịch vụ logistics, đặc biệt cold chain logistics (hệ thống chuỗi lạnh).

Đối với các đơn vị kinh doanh nông sản, cần tăng tường tính chuyên môn hoá, giảm tỉ lệ hao hụt, tổn thất qua việc sử dụng phần lớn các dịch vụ thuê ngoài logistics; tích cực hoạt động trong các Hiệp Hội doanh nghiệp để tăng tính kết nối.

Đối với đơn vị cung cấp dịch vụ logistics, cần liên kết các đơn vị để tạo chuỗi dịch vụ logistics tích hợp đối với hàng nông sản xuất khẩu giúp khách hàng giảm chi phí, thời gian.

Thu Hương