Xã hội

Chuyện ít biết về dịch bệnh ở Việt Nam xưa: Dịch bệnh và cái đuôi con chuột

Covid -19 là dịch bệnh tiếp theo trong lịch sử dịch tễ Việt Nam. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, dịch bệnh ở Việt Nam xuất hiện lần đầu vào năm 1.100, triều vua Lý Nhân Tông. Từ đó cho đến năm 1789, Việt Nam 9 lần xảy ra dịch. Dịch bệnh không chỉ lây lan trong dân chúng mà còn cả trong quân đội.

Trong 75 năm xảy ra 70 trận dịch  

Năm 1775, nhiều binh lính nhà Trịnh bị chết vì dịch tả nên tướng Hoàng Ngũ Phúc đã phải cho quân rút khỏi Quảng Nam kéo về thành Phú Xuân. Vì sử biên niên chủ yếu ghi chép việc làm của vua, chép về dịch  bệnh  rất sơ lược. Trong số 9 trận dịch thì có  5 trận  lây lan trên phạm vi rất rộng còn lại xảy ra ở phạn vi địa phương. Lớn nhất và cũng  nguy hiểm  là trận  dịch xảy ra vào 10-1757 ở một số vùng thuộc  trấn Sơn Tây.

Theo “Đại Nam thực lục chính biên”, từ năm 1820-1895, Việt Nam xảy ra 70 trận  dịch bệnh lớn nhỏ. Tháng 6-1820,  dịch bắt đầu phát ra từ một số tỉnh miền Tây Nam Bộ rồi  lan ra toàn quốc làm chết  206.835 người trong đó có thi hào Nguyễn Du. Từ 11-1887 đến tháng 6-1888, dịch đậu mùa hoành hành  ở  Quảng Ngãi làm  chết 13.934 người. Năm 1888, ở Hà Nội xảy ra  dịch tả  khiến nhiều người  bị chết. Không chỉ có dân Việt mà lính Pháp cũng không thoát được virus tả  nên chính  quyền  khi đó phải tổ chức cách ly trong  “Trường  thi Hương”  (nay là Thư viện Quốc gia-phố Tràng Thi). Chính quyền cũng cách ly dân các phố bị bệnh.

Trong cuốn “Lịch sử Hà Nội” (Histore de Hanoi), tác giả Phillip Papin viết:  “Có khoảng 6.000 người chết, đó là  con số rất lớn vì giai đoạn  này dân số Hà Nội khoảng 10 vạn”. Còn  cuốn “Xứ Đông thuộc  Pháp-Những kỷ niệm” (L’Indochine Francaise: Souvenirs)  của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer  (1897-1902)  đã viết về trận dịch hạch năm 1902 và 1903. Lo sợ bệnh dịch, nhiều gia đình đã đưa con cái và cha mẹ già về quê, lao động nhập cư các tỉnh cũng chuồn lẹ khỏi Hà Nội.

Dịch hạch xuất hiện ở Hà Nội năm 1902 được cho do công nhân Trung Quốc sang Việt Nam làm đường  sắt mang theo (Ảnh minh họa)

Một cuốn sách khác là  “Kẻ chinh phục” (Le Conquérant) của Herbert Wild viết về kinh tế Hà Nội những năm đầu thế kỷ 20 đã đánh giá vai trò của lao động nhập cư. Họ  đến từ các tỉnh làm phu ở các xí nghiệp, nhà máy, cơ sở dịch vụ, cửa hiệu buôn bán, giúp việc cho nhiều gia đình, lại có cả  người sống bám vào  mặt đường. Nhưng tác giả cũng đưa ra mặt trái là khi thành phố này có dịch  tả năm 1910 và 1914 thì khá đông trong số họ đã trở về quê khiến  phố xá thưa vắng  gây  thiếu hụt lao động trầm trọng.

Dịch hạch xuất hiện ở Hà Nội năm 1902 được cho do công nhân Trung Quốc sang Việt Nam làm đường  sắt mang theo. Dù  họ bị chính quyền bắt cách ly trong Văn Miếu nhưng vi trùng gây bệnh truyền qua chuột khiến dịch  đã lây lan ra khắp thành phố. Và một chiến dịch mua đuôi  chuột đã được nhà chức trách đưa ra với lý lẽ đầy thuyết phục, “chỉ cần họ nộp cái  đuôi thì chính quyền sẽ không phải giải quyết cái xác”. Nhưng khốn thay, đây lại là cơ hội kiếm tiền của nhiều kẻ vô lương, bọn họ nuôi chuột ở ngoại ô, mua ở các tỉnh  giết lấy đuôi nộp cho cảnh sát lĩnh tiền. Song như thế vẫn còn tử tế vì có bọn  khốn nạn hơn khi chỉ cắt đuôi rồi thả  ra. Chuột rất mắn đẻ nên chẳng bao lâu bọn họ lại có cái đuôi nộp cho cảnh sát. 

Tình người trong dịch

Trận dịch đã  làm chết làm  263 người trong đó có nhiều xác chết vô thừa nhận, không ai chôn cất. Thương cảm với những số phận không may, nhà tư sản dân tộc Bạch Thái Bưởi đã cùng với các nhà buôn là các ông Vũ Quang Huy, Đỗ Đình Đắc, Phạm Sỹ Hạnh, Long Ngổ góp tiền lập ra Hội Hợp Thiện. Mục đích ban đầu của hội là “Phù thi tử lộ”. Để có đất chôn cất,  Hợp Thiện mua 300 mẫu ruộng của làng Quỳnh Lôi (nay thuộc quận Hai Bà Trưng) làm nghĩa trang.

Năm 1910, Hà Nội lại bất ngờ xuất hiện  dịch tả, cả thành phố lao đao vì thực phẩm bị  cấm buôn bán, có khu phố như vắng hơn nghĩa địa.Thấy  cần thiết phải có một cơ sở chữa trị và cách ly  những người  bệnh, chính quyền Pháp khi  đó đã cho xây Bệnh viện Lây Cống Vọng (Hôpital des contagieux à Cống Vọng, tiền thân của Bệnh viện Bạch Mai sau này).

Hàng năm từ tháng 7-9 ở miền Bắc thường xảy ra dịch bệnh, dù cảnh sát và nhân viên y tế cố gắng đưa người bị bệnh về đây nhưng không xuể.  Nguy hiểm song  nhiều  phu  kéo xe tay không ngại đã tự  nguyện chở người bệnh  xuống bệnh viện góp phần hạn chế lây lan.

Người dân hợp tác vứt rác, giữ gìn vệ sinh môi trường (Ảnh tư liệu)

Cũng trong “Lịch sử Hà Nội”, Philippe Papin đã đưa ra kết quả không thể tin nổi là  trong  những năm đầu thế kỷ 20:  “Mỗi năm dịch tả và dịch hạch đã giết chết từ 300-400 người sống ở Hà Nội”và “Từ năm 1885-1920 vì dịch tả và dịch hạch nên tuổi thọ trung bình của viên chức người  Việt trong chính quyền Pháp chỉ là 36 năm 6 tháng”, đó là tầng lớp khá giả còn với dân nghèo thiếu ăn thì tuổi thọ chắc chắn thấp hơn nhiều. Do số người sống ở  Hà Nội chết vì dịch hàng năm quá nhiều vì thế chính quyền đã cho phép dân chúng các tỉnh nhập cư để bù lại số lao động thiếu hụt.

Sang thập niên 30 nhờ có nhiều loại vaccine và sự hợp tác của dân chúng nên dịch tả và dịch hạch không còn là  nỗi lo của xã hội. Tuy nhiên ở các  vùng quê,  bệnh đậu mùa vẫn là nỗi sợ hãi của nhiều gia đình. Con cái họ tuy không chết nhưng  mang bộ mặt rỗ suốt đời. Song  khủng khiếp nhất trong lịch sử dịch bệnh Việt Nam là năm 1945.

Trong công trình nghiên cứu về nạn đói năm 1945 của giáo sư Văn Tạo và giáo sư người Nhật ông  Furuta Moto, dân chúng miền Bắc không chỉ chết vì đói, rất nhiều  người  chết là do dịch bệnh. Nạn đói diễn ra ở miền Bắc bắt đầu từ cuối năm 1944 cho đến 5-1945. Những người đói  ăn đổ về các đô thị, đặc biệt là  Hà Nội. Trong ký ức của lớp người cao tuổi, sáng ra mở cửa thấy người chết nằm ở vỉa hè ngay trước cửa nhà. Phố nào cũng có người  chết và  người sắp chết vì đói,vì bệnh.

Trong số liệu của Tòa Khâm sứ Hà Nội, tháng 5-1945, có tới  400.000 người  chết vì dịch bệnh trong tổng số 2 triệu người chết đói. Cảm thương thân phận con người, hầu như gia đình Hà Nội nào cũng bớt khẩu phần ăn giúp đỡ họ. Không chỉ giúp ăn, các bác sỹ, y tá, hộ lý ở bệnh viện Phủ Doãn (nay là Việt Đức), Bạch Mai tham gia cứu người  không kể ngày đêm. Bác sĩ Vũ Đình Tụng khi đó  làm việc ở Bệnh viện Phủ Doãn, ngoài chữa trị ở bệnh viện  còn cấp thuốc cho bất cứ ai ông gặp trên đường, người đang lay lắt trước cửa nhà nhà ông ở phố Trần Xuân Soạn.

Vì cùng chồng  chữa bệnh nên vợ ông cũng bị dịch nhưng may cứu được. Do số người  chết quá nhiều nên chính quyền thành phố đưa di chôn không xuể. Trước  tình cảnh ấy, thanh niên, trung niên và sinh viên  Hà Nội trưng dụng xe xích lô (năm này không còn xe kéo tay) xe bò kéo chở xác chết xuống nghĩa trang Hợp Thiện và Giáp Bát.

Năm 1945, nghĩa trang Hợp Thiện là nơi chôn cất hàng chục vạn người  bị chết đói và chết vì dịch tả, kiết lỵ, sốt  chấy rận... Trong nạn đói và dịch bệnh năm 1945 còn có rất nhiều tên tuổi khác cũng hết lòng vì đồng bào trong đó có các nhà tư sản dân tộc như:  Trịnh Văn Bô, Nguyễn Sơn Hà, Nguyễn Thị Năm, Đỗ Đình Thiện, Vương Thị Lai...Không chỉ mua gạo cứu đói  mà còn bỏ tiền mua hàng nghìn quan tài để nhiều xác chết  không bị vùi xuống hố.

Thập niên 30 của thế kỷ 20 còn có nhiều gương  sáng về lòng nhân ái như bà Cả Mọc (bán tơ lụa ở phố Hàng Ngang),  có Hội Phúc Thiện của công nhân ngành hỏa xa (trụ sở ở phố Lê Trực), Hội Ái hữu tương tế, Hội Quảng Thiện (trụ sở ở ngõ Cổng Đục) và đặc biệt khi có lũ lụt, dịch bệnh thì thanh niên, sinh viên hay Hội Công thương Bắc Kỳ đã tổ chức diễn văn nghệ ở Nhà hát Lớn quyên tiền giúp người bị nạn.

Dịch bệnh xảy ra trên đất Việt Nam xưa và nay ngoài yếu tố ngoại sinh thì  nguyên nhân nội sinh  là gì? Khoa học dù  phát triển nhưng thiên nhiên luôn  bí ẩn để loài  người mãi mãi chạy theo tìm hiểu. 

Còn nữa...

Nguyễn Ngọc Tiến