Chính sách

Đề xuất bỏ chức danh Trưởng Công an quận, phường ở 3 TP lớn

Việc sửa đổi này nhằm sửa đổi những quy định không phù hợp với các Nghị quyết của Quốc hội về chính quyền đô thị.

Bộ Nội vụ đang lấy ý kiến đối với dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định (Nghị định 32/2021, Nghị định 33/2021 và Nghị định 34/2021) quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị tại Tp.Hà Nội, Tp.HCM và Tp.Đà Nẵng.

Dự thảo Nghị định gồm 5 Điều (sửa đổi, bổ sung 8 điều của Nghị định số 32/2021/NĐ-CP; sửa đổi, bổ sung 15 điều của Nghị định số 33/2021/NĐ-CP; sửa đổi, bổ sung 11 điều của Nghị định số 34/2021/NĐ-CP).

Việc sửa đổi, bổ sung 3 Nghị định nhằm sửa đổi những quy định không phù hợp với các Nghị quyết của Quốc hội về chính quyền đô thị; kịp thời giải quyết, khắc phục những bất cập, vướng mắc, khó khăn phát sinh từ thực tiễn tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại 3 thành phố trong thời gian vừa qua.

Cụ thể, Điều 1 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 32/2021/NĐCP; Điều 2 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 33/2021/NĐ-CP và Điều 3 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 34/2021/NĐ-CP. Nội dung sửa đổi, bổ sung các Nghị định như sau:

Về cơ cấu tổ chức của UBND quận, phường, sửa đổi 3 Nghị định theo hướng bỏ các chức danh Trưởng Công an quận, Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự quận trong cơ cấu tổ chức của UBND quận; bỏ chức danh Trưởng Công an phường trong cơ cấu tổ chức của UBND phường.

Về cán bộ thuộc tổ chức Đảng, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở phường,để thống nhất trong quản lý, sử dụng cán bộ thuộc tổ chức Đảng, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở phường với công chức làm việc tại UBND phường, đề xuất sửa đổi, bổ sung tại 3 Nghị định những nội dung sau:

Quy định biên chế, sử dụng, quản lý và chế độ, chính sách đối với cán bộ thuộc tổ chức Đảng, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở phường do UBND quận, thị xã, thành phố thuộc thành phố quản lý, sử dụng (việc bầu cử cán bộ thuộc tổ chức Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở phường vẫn thực hiện theo quy định của Đảng, điều lệ của các tổ chức chính trị - xã hội và quy định của pháp luật liên quan).

Quy định liên thông giữa cán bộ thuộc tổ chức Đảng, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở phường với công chức ở phường và công chức từ cấp quận trở lên. Theo đó, người được bầu giữ chức vụ cán bộ thuộc tổ chức Đảng, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở phường khi thôi đảm nhiệm chức vụ (không trong thời hạn xử lý kỷ luật) thì được xem xét, tiếp nhận vào làm công chức phường hoặc công chức từ cấp quận trở lên nếu đủ điều kiện, tiêu chuẩn của chức danh, vị trí công chức đó theo quy định.

Về số lượng, chế độ, chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách, sửa đổi, bổ sung 3 Nghị định theo hướng 3 thành phố được chủ động quy định số lượng, chế độ, chính sách của người hoạt động không chuyên trách ở phường và ở tổ dân phố trên cơ sở tình hình thực tiễn và cân đối ngân sách của địa phương.

Về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức quận, phường, số lượng biên chế công chức phường của 3 thành phố được xác định theo quy mô dân số của phường.

Đối với phường thuộc quận, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương: có từ 30.000 dân trở xuống thì được tính 15 biên chế công chức; có trên 30.000 dân đến 50.000 dân thì được tính 16 biên chế công chức; có trên 50.000 dân đến 70.000 dân thì được tính 17 biên chế công chức; có trên 70.000 dân đến 90.000 dân thì được tính 18 biên chế công chức; có trên 90.000 dân đến 110.000 dân thì được tính 19 biên chế công chức; có trên 110.000 dân thì được tính 20 biên chế công chức.

Đối với phường thuộc thị xã: có từ 10.000 dân trở xuống thì được tính 15 biên chế công chức; có trên 10.000 dân đến 17.000 dân thì được tính 16 biên chế công chức; có trên 17.000 dân đến 24.000 dân thì được tính 17 biên chế công chức; có trên 24.000 dân đến 31.000 dân thì được tính 18 biên chế công chức; có trên 31.000 dân đến 38.000 dân thì được tính 19 biên chế công chức; có trên 38.000 dân thì được tính 20 biên chế công chức.

Lưu ý, dân số để tính số lượng biên chế công chức phường nêu trên được xác định theo quy định của pháp luật về phân loại đơn vị hành chính.

Với việc xác định biên chế công chức phường theo quy mô dân số nêu trên thì tổng biên chế công chức phường của 03 thành phố theo tính toán bước đầu dự kiến tăng 208 biên chế so với quy định hiện nay (tính trung bình 15 biên chế/phường). Tuy nhiên, khi thực hiện tổ chức mô hình chính quyền đô thị và tiến hành sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2019-2021 tại 03 thành phố đã giảm khoảng 700 biên chế cán bộ, công chức phường do không còn 469 cán bộ phường là Phó Chủ tịch HĐND phường; giảm số lượng Chủ tịch HĐND phường trước đó đã được các thành phố bố trí hoạt động chuyên trách và giảm được khoảng 170 cán bộ, công chức cấp xã (trong đó có các phường trực thuộc) sau khi sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã.

Căn cứ vào tổng số biên chế công chức phường của 3 thành phố được xác định nêu trên, UBND các thành phố trình HĐND cùng cấp phân bổ tổng số lượng biên chế công chức phường của từng quận, thị xã, thành phố thuộc thành phố.

Căn cứ vào tổng số biên chế công chức phường được HĐND thành phố phân bổ và yêu cầu, nhiệm vụ của từng phường, UBND quận, thị xã, thành phố thuộc thành phố quyết định giao cụ thể số lượng biên chế công chức làm việc tại UBND mỗi phường trực thuộc cho phù hợp (không hạn chế số lượng tối thiểu và tối đa công chức của phường nhưng không được vượt quá tổng số biên chế công chức phường được phân bổ).

Tuệ Minh