Góc nhìn luật gia

Cho người chưa đủ tuổi mượn xe có bị xử phạt không?

Đủ tuổi lái xe là một trong những điều kiện bắt buộc của người tham gia giao thông. Trường hợp lái xe khi chưa đủ tuổi là hành vi bị xử phạt nghiêm khắc theo Nghị định 100/2019/NĐ-CP. Đặc biệt, cho người chưa đủ tuổi mượn xe cũng bị xử phạt.

Việc pháp luật quy định độ tuổi tham gia giao thông với từng loại xe là do xét về nhận thức pháp luật giao thông, kinh nghiệm, kỹ năng xử lý tình huống khi điều khiển phương tiện…

Điều khiển xe khi chưa đủ tuổi là hành vi gây nguy hiểm cho bản thân, cho người khác và phải đối mặt với mức phạt nặng của cơ quan chức năng.

Luật Giao Thông đường bộ có quy định về điều kiện của người lái xe tham gia giao thông, theo đó người lái xe tham gia giao thông phải đủ độ tuổi, sức khoẻ theo quy định Điều 58, Điều 60 Luật này và có giấy phép lái xe phù hợp với loại xe được phép điều khiển do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp.

Theo khoản 1 Điều 60 Luật Giao thông đường bộ, độ tuổi của người lái xe quy định như sau:

- Người đủ 16 tuổi trở lên được lái xe gắn máy có dung tích xylanh dưới 50 cm3.

- Người đủ 18 tuổi trở lên được lái xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh có dung tích xylanh từ 50 cm3 trở lên và các loại xe có kết cấu tương tự; xe ô tô tải, máy kéo có trọng tải dưới 3.500 kg; xe ô tô chở người đến 9 chỗ.

- Người đủ 21 tuổi trở lên được lái xe ô tô tải, máy kéo có trọng tải từ 3.500 kg trở lên; lái xe hạng B2 kéo rơmoóc (FB2).

- Người đủ 24 tuổi trở lên được lái xe ô tô chở người từ 10 đến 30 chỗ; lái xe hạng C kéo rơmoóc, sơmi rơmoóc (FC).

- Người đủ 27 tuổi trở lên được lái xe ô tô chở người trên 30 chỗ; lái xe hạng D kéo rơmoóc (FD).

- Tuổi tối đa của người lái xe ô tô chở người trên 30 chỗ là 50 tuổi đối với nữ và 55 tuổi đối với nam.

Hiện nay các mức phạt đối với người lái xe khi chưa đủ tuổi được quy định tại Nghị định 100/2019/NĐ-CP.

Phạt cảnh cáo người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi điều khiển xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự xe mô tô hoặc điều khiển xe ô tô, máy kéo và các loại xe tương tự xe ô tô;

Phạt tiền từ 400.000 đồng đến 600.000 đồng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh từ 50 cm3 trở lên.

Phạt tiền từ 1,2 triệu đồng đến 3 triệu đồng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi điều khiển xe ô tô, máy kéo, các loại xe tương tự xe ô tô.

Đối với các loại xe khác như ô tô chở người trên 10 chỗ, ô tô tải, máy kéo… Nghị định 100/2019/NĐ-CP không quy định mức phạt. Bởi nếu chưa đủ độ tuổi được điều khiển xe thì họ cũng không được phép thi Giấy phép lái xe. Vì thế, khi tham gia giao thông đương nhiên sẽ bị xử phạt lỗi không có Giấy phép lái xe với mức phạt rất nghiêm khắc từ 4 đến 6 triệu đồng.

Cho người chưa đủ tuổi mượn xe cũng bị phạt. (Ảnh minh họa)

Cho người chưa đủ tuổi mượn xe cũng bị phạt

Không chỉ người lái xe chưa đủ tuổi bị phạt, chủ xe cho người chưa đủ tuổi mượn xe tham gia giao thông cũng phải liên đới chịu trách nhiệm.

Theo điểm đ khoản 5 Điều 30 Nghị định 100, chủ xe mô tô, xe gắn máy và các loại xe tương tự xe mô tô giao xe hoặc để cho người không đủ điều kiện lái xe sẽ bị phạt tiền từ 800.000 đồng đến 2 triệu đồng đối với cá nhân. Từ 1,6 triệu đồng đến 4 triệu đồng đối với tổ chức.

Điểm h khoản 8 Điều 30 quy định chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô giao xe hoặc để cho người không đủ điều kiện lái xe bị phạt tiền từ 4 đến 6 triệu đồng đối với cá nhân và từ 8 đến 12 triệu đồng đối với tổ chức.

Ngoài ra, trường hợp người lái xe khi chưa đủ tuổi gây tai nạn hậu quả nghiêm trọng thì người giao xe cho người chưa đủ tuổi còn có thể bị truy tố về tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ theo Điều 264 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017.

Cụ thể, người nào giao cho người mà biết rõ người đó không có giấy phép lái xe hoặc đang trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy, chất kích thích mạnh khác hoặc không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm: Làm chết người; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 1 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 2 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; Gây thiệt hại về tài sản từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 200 triệu đồng hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm: Làm chết 2 người; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 2 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%; Gây thiệt hại về tài sản từ 500 triệu đồng đến dưới 1,5 tỷ đồng.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm: Làm chết 3 người trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 3 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên; Gây thiệt hại về tài sản 1,5 tỷ đồng trở lên.

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 30 triệu đồng.

Như vậy, dấu hiệu bắt buộc của tội này là người giao phương tiện giao thông đường bộ cho người khác điều khiển phải biết người đó không có giấy phép lái xe hoặc đang trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, chất kích thích mạnh khác hoặc không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp giao cho người khác điều khiển phương tiện tham gia giao thông mà không biết người đó không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ thì sẽ không phạm tội theo quy định tại Điều 264 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Hoàng Mai