Văn hoá

Chiêm ngưỡng hổ Malaysia và cây đa 3 gốc ở Lăng Ông Bà Chiểu

Ngày nay, khách hành hương và khách du lịch khi ghé thăm Lăng Ông Bà Chiểu sẽ được chiêm ngưỡng một cây đa ba gốc, hơn trăm tuổi và con hổ còn nguyên, mua về từ Malaysia cách đây mấy chục năm.

Chiêm ngưỡng Lăng Ông Bà Chiểu.

Từ cổng chính đường Vũ Tùng, khách đến Lăng ông bà Chiểu thì sẽ thấy một cây đa cổ thụ, cao hàng chục mét với 3 gốc rất độc đáo. Nó giống như cổng Tam quan ở phía trước Lăng.

Cây đa cổ thụ có 3 gốc hiếm thấy.

Cây đa 3 gốc nhìn giống như cổng Tam quan của Lăng Ông.

Một gốc ở giữa là gốc chính, còn bên trái (từ ngoài vào) là cành sà xuống, ôm một cây dừa ở bên cạnh và tạo ra một gốc. Ở hướng còn lại, một nhánh khác sà xuống, cắm vào đất tạo thành gốc thứ 3.

Cành sà xuống, ôm lấy thân dừa, tạo thành thêm 1 gốc.

Theo những người làm công tác quản lý của Lăng thì cây đa này đã có tuổi đời hơn trăm năm, toả bóng mát cho lăng mộ Tả quân Lê Văn Duyệt và phu nhân.

Tán cây rộng, che bóng mát một mảng lớn ngay khu vực lăng mộ Tả quân và phu nhân.

Bên cạnh đó, đi sâu vào trong miếu thờ, sẽ thấy một con hổ còn nguyên lông, răng, đuôi, nanh…

Trong Lăng còn có một số cây cổ thụ khác, phải mấy người dang tay ôm.

Một người làm thủ từ trong Lăng cho biết: “Con hổ này được nguyên Chủ tịch UBND huyện Hóc Môn TP.HCM trước đây mua về từ Malaysia để trưng trong nhà nhưng cảm thấy không hợp nên đã đưa đến tặng Lăng từ năm 1989”.

Trong Lăng còn có 1 con hổ, được nhập về từ Malaysia, đến nay cũng đã hơn 30 năm.

Theo quan sát của PV Người Đưa Tin, con hổ này còn nguyên và kích thước rất lớn.

Con hổ có kích thước rất lớn, thuộc dạng hiếm có ngày nay.

Lăng Ông Bà Chiểu là tên thường gọi của người dân đối với Lăng Ông Tả quân Lê Văn Duyệt. Đây là nơi an nghỉ của Tả quân Lê Văn Duyệt và Chánh Thất Tả quân phu nhân, bà Đỗ Thị Phẫn.

Lăng Ông từng được xem là biểu tượng của Sài Gòn nói riêng và cả miền Nam nói chung về kiến trúc.

Công trình được xây dựng vào năm 1949, từng được xem là biểu tượng của Sài Gòn nói riêng và cả miền Nam nói chung về kiến trúc.

Văn bia này do Kinh lược sứ Hoàng Cao Khải viết vào năm Giáp Ngọ (1894), bằng chữ Hán.

Lăng được thiết kế theo 3 phần: Sau cổng Tam quan là Văn bia, khu mộ phần và điện thờ cúng.

Bàn thờ Tả quân Lê Văn Duyệt.

Văn bia là do sáng tác, bằng chữ Hán, đồng thời, cũng đã được dịch ra theo ngôn ngữ ngày nay để nhiều người biết được công trạng của tả quân Lê Văn Duyệt.

Ngoài 3 bàn thờ chính, đều thờ Tả quân thì bên trái có bàn thờ Hiệp biện Đại học sỹ Phan Thanh Giản.

Kế đến là 2 ngôi mộ giống nhau, xây theo kiểu nửa quả trứng úp xuống đất, không có phân biệt nên cũng tranh cãi về mộ ông và mộ bà.

Góc phải (từ ngoài vào) của miếu thờ.

Tả quân Lê Văn Duyệt (1764 - 1832), sinh ra tại làng Hòa Khánh, huyện Kiến Phong, tỉnh Định Tường (nay là huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang).

Trong Lăng, nhiều đồ vật được chạm khắc tinh xảo, kỳ công.

Ông là một trong những bậc “Khai Quốc công thần” của Triều Nguyễn. Ông được biết đến là người thanh liêm, đức độ và nhân dân hết sức tin yêu. Chính vì thế, người dân thường gọi là Ông Lớn Thượng và Lăng cũng có tên là Thượng Công miếu.

Theo Ban quản lý di tích thì ngày thường có khoảng 100 đến 200 người đến tham quan, cúng bái.

Thậm chí, công trạng của ông còn được Vua Gia Long ban cho nhiều đặc ân như: Tiền trảm hậu tấu (chém trước tấu sau), “nhập triều bất bái” (vào triều không phải quỳ lạy).

Không gian tĩnh lặng, cây toả bóng mát cho người dân, du khách đến Lăng nghỉ ngơi.

Lăng Ông ngày nay nằm trọn trong 4 con đường là: Phan Đăng Lưu, Đinh Tiên Hoàng, Trịnh Hoài Đức và Vũ Tùng (quận Bình Thạnh, TP.HCM). 

Giếng cổ trong Lăng.

Dịp mùng 1 và ngày rằm hàng tháng thì lượng người rất đông, đặc biệt là dịp Tết Nguyên Đán, có khi lên đến hàng ngàn người.

Lăng Ông được công nhận là di tích cấp Quốc gia vào năm 1988.